Giám mục Jerónimo_Hermosilla_Vọng

Hành trình đến lễ Tấn phong

Tòa Thánh đặt cha Vọng làm Đại diện Tông Tòa thay thế hai Giám mục Y và Minh đã tử đạo[1]. Theo dự định, lễ tấn phong cử hành vào ngày 14 tháng 4 năm 1841 tại Vĩnh Trị, Phúc Nhạc, nơi Giám mục Retordd Liêu ẩn trú.[3]. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh được mật báo đem quân bao vây bắt lầm được hai thừa sai Pháp là Berneux Nhân và Galy Lý. Về sau nhờ áp lực của quân Pháp, nhà vua cho lệnh tha hai người về (1843).[1]

Hai ngày sau vị Giám mục Tân cử Vọng mới khởi hành từ Hải Dương đến Vĩnh Trị.[1] Vì đã biết hai vị thừa sai bị bắt, ông nhờ giáo hữu dẫn đi đường khác. Chỉ có thể đi vào ban đêm, đi đường rừng, có khi đi thuyền nhưng thường là đi bộ, còn ban ngày thì ẩn nấp trong bụi cây, ngoài đồng lúa hoặc bụi tre. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh đặt các tram canh khắp nơi. Đặc biệt có một trạm canh, ông phải hối lộ cho viên phó tổng và theo kế hoạch của ông ta để lọt được qua trạm.[2]

Nghi lễ Tấn phong & Những hoạt động

Đến Vĩnh Trị, ông đến tòa giám mục của Giám mục Liêu. Đó là một cái chòi có lối chạy xuống hầm để đề phòng mỗi khi quan quân đến thăm. Tại đây, ngày 25 tháng 4, ông được tấn phong. Tân giám mục tìm đường trở về giáo phận và đổi tên là Liêm, thay cho danh trùm Vọng được treo thưởng truy lùng. Ít lâu sau Tổng đốc cũng ngã bệnh và qua đời.[1] Lợi dụng tình hình lắng dịu, Giám mục Liêm đã hoạt động không ngừng. Ngày 26 tháng 6, ông tấn phong Giám mục cho linh mục Jimenô Lâm làm Giám mục phụ tá. Sau lễ, ông họp các linh mục để lập chương trình truyền giáo trong hoàn cảnh mới.

Từ đó, đức tin cả giáo phận có sự khởi sắc. Trường Latinh được xây dựng lại tại Nam An (Hải Dương), sau dời về Lục Thủy. Trường thần học được thiết lập ở Mỹ Động, Hải Dương. Ông khuyên giáo dân đặc biệt tin tưởng, trông cậy vào Đức Mẹ, siêng năng đọc kinh Mân Côi và kêu cầu nữ Thánh Philomêna tử đạo. Sau này, ông chọn thánh nữ làm bổn mạng giáo phận và xin phép tòa Thánh mừng lễ hàng năm.[1] Nhờ sự cộng tác của nhiều tân linh mục trong giáo phận và nhiều thừa sai mới được gửi tới, tình hình giáo phận Đông phục hồi rất nhanh. Việc trao ban bí tích được gia tăng thêm mỗi năm. Chỉ cần cẩn thận, các Giám mục có thể đi ban Bí Tích Thêm sức nhiều nơi.[2]

Năm 1844, ông mở lễ kính thánh Đa Minh rất trọng thể. Các linh mục tu sĩ, giáo dân thay nhau về thánh đường Nam Am suốt tám ngày liền. Họ gặp nhau chia sẻ tin tức, kinh nghiệm sống đạo của mình. Thánh lễ đại trào duy nhất của Giám mục Liêm, sau này sẽ trở thành tập tục "Lễ Đầu Dòng" trong giáo phận. Số người mới gia nhập ngày càng gia tăng. Ngày 22 tháng 8 năm 1844 tại Đông Xuyên ông rửa tội cho 44 người lớn, trong đó có một Chánh tổng, một Phó tổng, tám lý trưởng, một thầy cúng.[2]. Năm 1848, khi số tín hữu lên tới 184.000, ông xin Tòa Thánh chấp thuận chia giáo phận thành hai: Giáo phận Trung (nay là khu vực giáo phận Bùi Chu, Thái Bình) được trao cho Giám mục Marti Gia; còn Giám mục Liêm giữ lại phần đất đông dân cư (trên mười triệu), mà ít tín hữu (chỉ 0,4 phần trăm). Từ đó hai giáo phận ngày càng phát triển vững mạnh hơn. Năm 1852, giáo phận của ông rửa tội được 388 người lớn, 2824 trẻ em, trong đó đa số là trẻ em.[1]

Mười năm cuối đời của Giám mục Liêm là những năm đầy khó khăn. Vua Tự Đức ra thêm chiếu chỉ cấm đạo.[2] Năm 1855 khi qua giáo phận Trung, hai thày giảng tháp tùng ông bị cướp bắt, ông phải năn nỉ cả ngày họ mới chịu tha. Năm sau, chính ông bị bắt khi đi kinh lý xứ Hữu Bàng, và phải chuộc mất 300 quan tiền. Năm 1858 trước tình hình bách hại gay gắt, sợ sẽ không còn ai sống sót, ông họp và quyết định chia một nửa số thừa sai về Macao chờ ngày thuận tiện hơn sẽ trở lại giáo phận hoạt động và giữ lại 5 thừa sai Đaminh cho cả giáo phận. Năm 1859, một lần nữa ông đổi tên là Tuấn để khỏi bị lộ cho tới ngày chiếu chỉ phân sáp ra đời.[1]

Đêm thu 18 tháng 9 năm 1861, chủng viện Kẻ Mốt phải giải tán, linh mục Khoa thay mặt ông, nói với chủng sinh những lời cuối:[1]

Từ trước tới nay Đức cha cố giữ anh em ở đây, và lo liệu cho anh em học hành. Bây giờ Đức cha buộc lòng phải giải tán nhà trường. nếu Chúa để chúng ta còn sống thì rồi đây có ngày Đức cha sẽ gọi anh em trở lại. Đức cha nhắn lời chúc lành và dặn dò anh em sống sao cho tốt, trông cậy vào Chúa là cha nhân lành và đừng quên cầu nguyện cho ngài, cho giáo phận và cho cả giáo hội Việt Nam. Anh em hãy thu xếp đi ngay trong đêm nay, khỏi cần bái chào Đức cha, kẻo ngài không cầm được nước mắt.

Cũng đêm đó ông rời Kẻ Mốt đến trú ẩn ở Thọ Đức, cùng đi có thày giảng Giuse Nguyễn Duy Khang. Hai người ở trọ ở Thọ Đức được ba tuần thì bị lộ. Lại phải xuống thuyền qua thị xã Hải Dương và tá túc trên thuyền của một giáo hữu, gia đình ông Trương Bính. Được vài ngày, hai vị thì gặp Giám mục Valentinô Berrio Ochoa Vinh và linh mục Almato Bình dọc theo đường thủy từ Kẻ Nê xuống.[2] Sau đó họ chia tay nhau mỗi người một nẻo.

Dưới sự che giấu hết sức của ông Trương Bính, ông và thầy giảng Khang được ít ngày bình yên cho đến hôm xảy ra cuộc cãi vả giữa cha con ông Trương Bính. Người con trai vì tức giận cha mẹ đã đi tố cáo ông bà về tội chứa chấp Tây Dương đạo trưởng. Đội Bằng lúc đó làm Chánh tổng liền đem gia nhân đến bắt ông vào ngày 20 tháng 10 năm 1861. Khi bị bắt, ông đưa cho đội Bằng một số tiền và nói: Xin bắt và giam giữ một mình tôi thôi. Hãy để những người đánh cá nghèo nàn này đi. Khi thày Khang nhổ cây sào thuyền định chống cự thì ông cản lại rằng: Đừng chống trả làm gì, hãy phó mặc cho Thánh ý Chúa. Thế là cả hai bị bắt trói và đưa về Hải Dương.[1]

Bị xử tử

Sau khi lấy khẩu cung ông bị giam trong chiếc cũi chật hẹp nằm không nổi, đứng cũng chẳng được, cứ phải khom lưng suốt ngày, chân tay rã rời. Dầu vậy, ông vẫn tìm cách giảng đạo cho các bạn tù và tranh thủ rửa tội cho con trai viên đội Bái, người cũng bị xử tử với ông.[2] Chiều ngày 26 tháng 10, sau khi bắt được Giám mục Valentinô Berrio Ochoa Vinh và linh mục Bình, quân lính hò reo ầm ĩ, ông đang ngủ say thì giật mình tỉnh dậy. Ba người trong ba chiếc cũi nhìn nhau, nhưng vui mừng vì được gặp lại nhau trong những ngày cuối đời.[2]

Ngày xử được ấn định là 01 tháng 11 năm 1861. Ba chiếc cũi được khiêng đi sau đội quân 500 người. Ông Liêm cũi cuối cùng, trang nghiêm như ngày đại lễ, thỉnh thoảng ngài giơ tay ban phép lành cho các giáo hữu đứng hai bên đường.[1] Tại pháp trường Năm Mẫu, ba vị được đưa ra khỏi cũi, cùng cầu nguyện ít phút rồi đưa tay cho lý hình trói vào ba cọc.[2] Bản án được đọc lên. Ba hồi chiêng trống, ba lưỡi gươm vung lên một lúc chém rơi đầu ba vị.[2] Khi các quan ra về, nhiều người tranh nhau thấm máu vị tử đạo. Ba thi hài được bọc trong ba chiếc khăn và chôn tại chỗ. Thủ cấp các vị được treo ở bến đò Hàn ba ngày (nhưng sau đó giáo dân đánh tráo bỏ vào đó ba củ chuối) rồi đưa về Yên Dật. Sau lại đưa về an táng tại Thọ Ninh một thời gian, cuối cùng di dời về đền Các Thánh Tử Đạo Hải Dương.[1]